Thứ 5 Ngày 14/5/2020, 10:13:21 AM
Chào mừng quý bạn đọc đến với Trang thông tin điện tử thị xã Mường Lay

Thực hiện Hướng dẫn số 33-HD/BTGTU,\r\nngày 05-7-2019 của Ban Tuyên giáo Thị ủy Mường Lay, Ban Tuyên giáo Thị ủy trân trọng giới thiệu toàn\r\nvăn Đề cương tuyên truyền kỷ\r\nniệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2019).

I- KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÔNG HỘI ĐỎ -\r\nTIỀN THÂN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

\r\n\r\n

1. Sự ra đời của của giai\r\ncấp công nhân Việt Nam

\r\n\r\n

Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền\r\nvới quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX.\r\nTrước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội\r\nphong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp\r\nnông dân; duy trì nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ\r\nsở kinh tế công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc xâm lăng và bình\r\nđịnh đã cơ bản hoàn thành, thực dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác thuộc\r\nđịa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà máy rượu bia, vải sợi,\r\nđiện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn điền cao su, cà phê...lần lượt ra đời\r\nvà cùng với đó đội ngũ những người công nhân Việt Nam đầu tiên được hình thành.\r\nHọ là những người nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công\r\nbị phá sản buộc phải vào làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp. Theo số\r\nliệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổng số công nhân của\r\nViệt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn\r\nnhư: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh...

\r\n\r\n

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để bù đắp những tổn thất,\r\nthực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và\r\ntốc độ lớn hơn trước. Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao\r\nthông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng cường vơ vét\r\nvà bóc lột ở các nước thuộc địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã\r\nphát triển nhanh chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.

\r\n\r\n

Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, giai cấp\r\ncông nhân Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền\r\nlợi, dẫn đến hình thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong các nhà máy, xí\r\nnghiệp. Cuối năm 1920, người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng đã vận động thành\r\nlập Công hội Ba Son ở Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng giai\r\ncấp, giải phóng dân tộc.

\r\n\r\n

2. Sự ra đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ - tiền thân của Công đoàn Việt\r\nNam ngày nay

\r\n\r\n

Quá trình hình thành và phát triển của Công hội đỏ Bắc Kỳ gắn liền\r\nvới quá trình hoạt động cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong những năm\r\nđầu của thế kỷ XX. Người đã tham gia Công đoàn hải ngoại Anh khi hoạt động tại\r\nLuân Đôn trong những năm 1914-1917; gia nhập Công đoàn Kim khí quận 17 Pari vào\r\nnăm 1919. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người đặt cơ sở lý luận và nền tảng tư\r\ntưởng cho việc thành lập tổ chức Công đoàn Việt Nam. Trong tác phẩm “Đường Kách\r\nmệnh”, Người chỉ dẫn: “Công hội trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho\r\ncó cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt\r\ncủa công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân,\r\nnăm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Tháng 6/1925, Người sáng lập\r\ntổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu - Trung Quốc và trực\r\ntiếp giảng dạy nhằm nâng cao lý luận chính trị cho học viên.

\r\n\r\n

Những năm 1925-1928, dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam Cách mạng\r\nThanh niên, phong trào “Vô sản hóa” đã thâm nhập sâu rộng vào trong các nhà\r\nmáy, xí nghiệp, hầm lò để tuyên truyền, vận động công nhân tích cực tham gia\r\nphong trào đấu tranh. Sự ra đời của Chi bộ Cộng sản đầu tiên (3/1929), đặc biệt\r\nlà sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) là kết quả của quá trình vận\r\nđộng, tổ chức công nhân mà Nguyễn Đức Cảnh là một trong những sáng lập viên và\r\ngiữ vai trò quan trọng. Trên cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm\r\nthời, Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương lâm thời phân công phụ trách công tác vận\r\nđộng công nhân.

\r\n\r\n

Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức Công hội, của công\r\nnhân trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, bóc lột, bảo vệ quyền lợi của công\r\nnhân, Nguyễn Đức Cảnh và những người đồng chí đã tích cực tổ chức cuộc vận động\r\nphong trào công nhân, trước hết là phong trào công nhân Bắc Kỳ để thành lập tổ\r\nchức Công hội. Ngày 28-7-1929, Đại hội đại biểu Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ lần thứ\r\nnhất khai mạc do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh chủ trì. Đại hội đã quyết định thành\r\nlập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, thông qua Điều lệ và hệ thống tổ chức của Công\r\nhội, ra báo “Lao động” và tạp chí “Công hội Đỏ”, bầu Ban Chấp hành Trung ương\r\nlâm thời do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh làm Hội trưởng. Sự kiện thành lập\r\nTổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ là mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân\r\nvà Công đoàn Việt Nam. Kể từ đây, GCCN Việt Nam có một đoàn thể cách mạng rộng\r\nlớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, đứng ra dẫn dắt phong trào.

\r\n\r\n

II- PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN QUA CÁC THỜI KỲ\r\nCỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

\r\n\r\n

1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)

\r\n\r\n

Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Dưới sự\r\nlãnh đạo của Đảng, Tổng Công hội Đỏ đã tập hợp lực lượng thợ thuyền, đội quân\r\nchủ lực của cách mạng Việt Nam, tạo nên cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh\r\n1930-1931. Cuối năm 1931, phong trào đấu tranh của GCCN Việt Nam bị thực\r\ndân Pháp đàn áp dã man, hầu hết số cán bộ Đảng và Công hội Đỏ đều bị địch bắt,\r\nkhiến cho mối liên lạc giữa Đảng và quần chúng, giữa Công hội Đỏ và phong trào\r\ncông nhân gần như bị gián đoạn. Trong điều kiện đó, bất chấp sự kiểm\r\nsoát gắt gao của thực dân Pháp, Công hội Đỏ vẫn tích cực tuyên truyền, vận động\r\ncông nhân, phát triển tổ chức. Từ năm 1932-1936, phong trào cách mạng trong cả\r\nnước bắt đầu phục hồi.

\r\n\r\n

Từ năm 1936-1939, tổ chức Công hội Đỏ đổi tên thành Nghiệp\r\nđoàn, Hội Ái hữu chuyển sang thời kỳ hoạt động bán công khai.\r\nNhờ sự tổ chức linh hoạt, thích hợp với tình hình, phong trào công nhân giai\r\nđoạn này vẫn phát triển mạnh mẽ lên đỉnh điểm mới. Tháng 9/1939, chiến\r\ntranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đầu hàng và thỏa hiệp với\r\nphát xít Nhật thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân\r\ndân ta, thủ tiêu các quyền tự do nghiệp đoàn. Trước tình hình đó, tổ chức\r\nNghiệp đoàn, Hội Ái hữu phải rút vào hoạt động bí mật và lấy tên là “Hội công\r\nnhân phản đế”, năm 1941 đổi thành “Hội Công nhân cứu quốc” làm nòng cốt\r\ncho hoạt động của tổ chức Việt Minh.

\r\n\r\n

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam thực sự là\r\ntrung tâm đoàn kết của công nhân lao động Việt Nam. Với trên 20 vạn\r\nngười trong năm 1945, các đoàn viên Công đoàn trở thành lực lượng nòng cốt làm\r\nnên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, khai sinh ra\r\nnước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

\r\n\r\n

2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp\r\n(1945 - 1954)

\r\n\r\n

Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, dưới sự lãnh đạo\r\ncủa Đảng, tháng 3/1946, Hội nghị đại biểu Công nhân cứu quốc Bắc Bộ, Trung Bộ\r\nvà Tổng Công đoàn Nam Bộ đã quyết định thống nhất về mặt tổ chức trên phạm vi\r\ncả nước thành “Hội Công nhân cứu quốc”. Tháng 6/1946, tại Hội nghị cán bộ Công\r\nđoàn cứu quốc đã đổi tên “Hội Công nhân cứu quốc” thành “Công đoàn”. Ngày 20-7-1946,\r\ntại Nhà hát lớn Hà Nội, “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” đã chính thức được\r\nthành lập và được công nhận là thành viên chính\r\nthức của Liên hiệp Công đoàn thế giới vào năm 1949.

\r\n\r\n

Trong những năm đầu đất nước giành độc lập, tổ chức Công đoàn và\r\nGCCN Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy\r\nthành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám, tham gia tích cực vào cuộc Tổng Tuyển\r\ncử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước dã tâm xâm\r\nlược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, các đội cảm tử Thủ đô, trong đó\r\nnòng cốt là công nhân đã chiến đấu với tinh thần quả cảm, anh dũng.

\r\n\r\n

Thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Tổng Liên đoàn\r\nLao động Việt Nam đã tổ chức vận động công nhân, viên chức, lao động\r\n(CNVCLĐ) tập trung xây dựng nhà máy, công xưởng, sản xuất vũ khí, khí tài\r\nquân sự; khắc phục khó khăn, hăng hái thi đua lao động phục vụ kháng\r\nchiến. Tại chiến khu Việt Bắc, từ ngày 01-15/01/1950, Đại hội lần I Công đoàn\r\nViệt Nam đã khẳng định mục tiêu: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất\r\nlà công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ kháng chiến\r\nchống thực dân Pháp đến thắng lợi”.Tại Đại hội này, đồng chí Hoàng\r\nQuốc Việt được bầu làm Chủ tịch.

\r\n\r\n

Tháng 2/1951, Đại hội lần thứ II của Đảng đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh\r\nphát triển kinh tế phục vụ tổng phản công, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi\r\nhoàn toàn. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng, Công đoàn vận động công nhân\r\nhăng hái sản xuất và tham gia quản lý, xây dựng xí nghiệp. Đây là bước chuyển\r\nbiến lớn về nhận thức tư tưởng và phương thức hoạt động Công đoàn. Từ đây trong\r\ncác xí nghiệp quốc doanh, Công đoàn đại diện cho công nhân tham gia các Ủy ban\r\nxí nghiệp, góp phần trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, đưa nền kinh tế\r\nkháng chiến phát triển về mọi mặt. Ở vùng tự do, Công đoàn phát động công nhân\r\n“Thi đua sản xuất, thi đua xây dựng”, “Cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến,\r\ntrau dồi nghề nghiệp”. Phong trào được tổ chức, chỉ đạo tương đối chặt chẽ,\r\nthực hiện dân chủ trong quản lý sản xuất.

\r\n\r\n

Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, Tổng Liên đoàn Lao động Việt\r\nNam đã tập hợp, đoàn kết, phát huy vai trò tiên phong của GCCN vượt qua muôn\r\nvàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, đấu tranh kiên cường, góp phần cùng quân và\r\ndân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy năm châu, chấn\r\nđộng địa cầu, kết thúc vẻ vang 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại\r\nhòa bình ở Đông Dương.

\r\n\r\n

3. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)

\r\n\r\n

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai\r\nmiền, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây\r\ndựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH), miền Nam còn dưới ách thống trị của đế quốc\r\nMỹ.

\r\n\r\n

Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Hội nghị Ban Chấp hành Tổng\r\nLiên đoàn Lao động Việt Nam khóa I họp vào tháng 8/1954 đã xác định nhiệm vụ\r\ntrọng tâm là “Cần phải động viên, tổ chức đông đảo quần chúng lao động trong\r\ncác đô thị thành một lực lượng mạnh mẽ làm chỗ dựa tốt nhất, chắc chắn nhất cho\r\nchính quyền tiến hành công tác tiếp thu, phục hồi sản xuất, giữ gìn an ninh,\r\ntrật tự thành phố”.

\r\n\r\n

Ở miền Bắc tiến hành công cuộc tái thiết đất nước, khó khăn tiếp tục\r\nđặt lên vai người công nhân. Với trách nhiệm chủ nhân của đất\r\nnước, đội ngũ CNVCLĐ đã đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm,\r\nchống lãng phí. Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn hoạt động sản xuất tại các cơ\r\nsở công nghiệp đã phục hồi. Qua thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, những\r\nđiển hình trong phong trào thi đua yêu nước của GCCN được lan tỏa, như\r\n“Sóng Duyên Hải”, “Hợp tác xã Thành Công”, “Ba quyết tâm”…đã xuất hiện nhiều\r\nCNVCLĐ tiêu biểu được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao\r\nđộng, là những tấm gương sáng trong học tập, lao động sản\r\nxuất và chiến đấu.

\r\n\r\n

Ở miền Nam, phong trào công nhân, Công đoàn hoạt động trong điều\r\nkiện vô cùng khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm ra\r\nsức khủng bố, đàn áp. Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn, đời\r\nsống của CNVCLĐ khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã chỉ đạo các cơ sở\r\ntrong nội thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân phát\r\ntriển lực lượng, tổ chức cho công nhân đấu tranh.

\r\n\r\n

Ngày 5-11-1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Sắc\r\nlệnh số 108-SL/L10 về ban hành Luật Công đoàn đã tạo cơ sở pháp lý, nâng cao vị\r\ntrí của tổ chức Công đoàn, củng cố vai trò lãnh đạo của GCCN trong tình hình\r\nmới. Thắng lợi của công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và\r\nbước đầu phát triển kinh tế, văn hóa đã tạo ra những tiền đề quan trọng góp\r\nphần xây dựng và đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện\r\nthống nhất nước nhà, thành quả đó có đóng góp quan trọng của GCCN và tổ chức\r\nCông đoàn Việt Nam.

\r\n\r\n

Trước những yêu cầu mới, Đại hội lần thứ II Công đoàn\r\nViệt Nam được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 23-27/2/1961đã quyết định\r\nđổi tên “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” thành “Tổng Công đoàn Việt Nam”. Đại\r\nhội đã đề ra mục tiêu: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi\r\nđua lao động sản xuất, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với tinh thần mỗi\r\nngười làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt, góp phần đấu tranh thống nhất\r\nnước nhà”; đồng chí Hoàng Quốc Việt tiếp tục được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần\r\nthứ III Công đoàn Việt Nam được tổ chức từ ngày 11-14/2/1974 tại Hà\r\nNội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng - Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng\r\nhòa làm Chủ tịch danh dự, đồng chí Hoàng Quốc Việt tiếp tục giữ cương vị\r\nChủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là “Các cấp Công đoàn phải phát động phong trào\r\nthi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng CNXH với năng suất lao động, hiệu\r\nquả công tác, phục vụ và tham gia chiến đấu, quyết tâm giải phóng miền Nam,\r\nthống nhất đất nước”.

\r\n\r\n

Tổng Công đoàn Việt Nam tham gia xây dựng một số chế độ, chính\r\nsách bổ sung và sửa đổi về lao động, tiền lương, tiền thưởng. Liên\r\nhiệp Công đoàn các tỉnh, thành phố đã ký kết Nghị quyết liên tịch với cơ\r\nquan chính quyền đồng cấp về việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối\r\nvới CNVCLĐ. Nhiều Công đoàn cơ sở đã kịp thời động viên CNVCLĐ thi\r\nđua lao động, sản xuất, phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao. Việc thực\r\nhiện quy tắc an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp được thực hiện tốt\r\nhơn, cải thiện điều kiện làm việc cho CNVCLĐ.

\r\n\r\n

Năm 1965, Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam được thành lập đã\r\nkhông ngừng củng cố và phát triển, vừa tổ chức cho CNVCLĐ các thành phố\r\nđấu tranh, vừa động viên CNVCLĐ vùng giải phóng đẩy mạnh sản xuất phục vụ chiến\r\nđấu. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968 và Chiến\r\ndịch Hồ Chí Minh, Công đoàn giải phóng đã vận động CNVCLĐ ở các đô\r\nthị đồng loạt nổi dậy, phối hợp với lực lượng vũ trang tiêu diệt\r\nđịch, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giải phóng\r\nhoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

\r\n\r\n

4. Thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (1975-1986)

\r\n\r\n

Đầu năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời,\r\nđã tạo điều kiện cơ bản để thống nhất tổ chức Công đoàn trên phạm vi cả nước.

\r\n\r\n

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, từ tháng 01/1976 Tổng\r\nCông đoàn Việt Nam và Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam bắt tay vào chuẩn\r\nbị các điều kiện cho việc thống nhất tổ chức Công đoàn của GCCN Việt\r\nNam. Ngày 6-6-1976, Hội nghị Công đoàn toàn quốc được tổ chức tại thành\r\nphố Hồ Chí Minh đã quyết định thống nhất Công đoàn hai miền Nam, Bắc thành\r\n“Tổng Công đoàn Việt Nam”.

\r\n\r\n

Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV được tổ chức tại Hà Nội\r\ntừ ngày 08-11/5/1978 đã nêu rõ mục tiêu: “Động viên GCCN và\r\nnhững người lao động khác thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy\r\nmạnh công nghiệp hóa trong cả nước”; đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ\r\nChính trị được bầu làm Chủ tịch.

\r\n\r\n

Những năm 1981-1982, Công đoàn đã tiến hành nhiều đợt tuyên\r\ntruyền sâu rộng trong công nhân, viên chức về tình hình và nhiệm vụ\r\ncủa đất nước, về chủ trương, chính sách, nhất là các chính sách kinh tế của\r\nĐảng và Nhà nước. Đi đôi với giáo dục chính trị, Công đoàn đã có nhiều cố gắng\r\ntrong việc duy trì phong trào học bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ; đẩy mạnh\r\ncác hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao; công tác báo chí,\r\nxuất bản của Công đoàn đã có những tiến bộ mới.

\r\n\r\n

Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành\r\ntừ ngày 16-18/11/1983 đã khẳng định mục tiêu: “Động\r\nviên công nhân, lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, là\r\nphát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất\r\nkhẩu”, Đại hội đã Quyết định lấy ngày 28-7-1929 là Ngày thành lập Công đoàn\r\nViệt Nam, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Chủ tịch.

\r\n\r\n

Các phong trào thi đua lao động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải\r\ntiến kỹ thuật trong CNVCLĐ đã tạo được bước chuyển biến tích cực, nhiều\r\nđiển hình tiên tiến và nhân tố mới đã hình thành, góp phần to lớn vào công cuộc\r\nxây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác phát triển đoàn viên được Công đoàn\r\nchú trọng, số đoàn viên và Công đoàn cơ sở ngày càng tăng lên. Bên cạnh đó,\r\nCông đoàn còn tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, đề nghị\r\nNhà nước bổ sung phụ cấp ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, trợ cấp khó\r\nkhăn…Các chế độ nghỉ ngơi, tham quan du lịch và các hoạt động văn hóa, văn\r\nnghệ, thể thao được duy trì, phát triển.

\r\n\r\n

Nhân dịp kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam\r\n(28/7/1929-28/7/1984), Nhà nước đã tặng Tổng Công đoàn Việt Nam Huân chương Sao\r\nVàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam.

\r\n\r\n

5. Thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước (1986-2019)

\r\n\r\n

Trong tình hình đất nước tiến hành đổi mới, từng bước hội nhập,\r\nĐại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 17-20/10/1988 tại Hà Nội\r\nđã xác định mục tiêu: “Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì\r\nviệc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội Quyết định đổi\r\ntên “Tổng Công đoàn Việt Nam” thành “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”; đồng\r\nchí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi\r\nmới, GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào kết quả thực\r\nhiện kế hoạch 5 năm (1986-1990), đưa đất nước ta dần thoát khỏi khó khăn, ổn\r\nđịnh đời sống nhân dân và CNVCLĐ.

\r\n\r\n

Đại hội lần thứ VII Công đoàn Việt Nam được tổ\r\nchức từ ngày 09-12/11/1993 tại Hà Nội đã nhấn mạnh yêu cầu “Đổi\r\nmới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chăm lo\r\nbảo vệ lợi ích công nhân lao động”; đồng chí Nguyễn Văn Tư được\r\nbầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ VIII Công đoàn Việt Nam họp\r\ntừ ngày 03-06/11/1998 nhấn mạnh “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện\r\nđại hóa đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây\r\ndựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh”; đồng chí Cù Thị Hậu được bầu\r\nlàm Chủ tịch. Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam họp từ ngày\r\n10-13/10/2003, đồng chí Cù Thị Hậu tiếp tục được bầu lại làm Chủ\r\ntịch, Đại hội đã khẳng định “Xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm\r\nlo bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại\r\nđoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại\r\nhóa đất nước”. Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam họp từ ngày\r\n02-05/11/2008 đã xác định mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương\r\nthức hoạt động của Công đoàn các cấp, hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn\r\nhoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng vận động, chuyển mạnh\r\nhoạt động Công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ\r\nquyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ, xây dựng quan hệ lao\r\nđộng hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế,\r\nxã hội của đất nước”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch.

\r\n\r\n

Nhiệm kỳ lần thứ X của Công đoàn Việt Nam hoạt động trong bối cảnh\r\nGCCN Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, là lực lượng\r\nđi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước\r\ntình hình đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban\r\nhành Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam\r\nthời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết\r\nthể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về xây dựng GCCN, đồng thời đáp\r\nứng nguyện vọng của hàng triệu CNVCLĐ trong cả nước. Những hoạt động triển khai\r\nthực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy\r\nĐảng, cùng với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và Công\r\nđoàn đã tạo được chuyển biến trong cả nhiệm kỳ hoạt động, đại diện, bảo vệ\r\nquyền và lợi ích hợp pháp chính đáng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho\r\nđoàn viên và người lao động.

\r\n\r\n

Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam được tổ chức\r\ntừ ngày 27-30/7/2013 đã xác định phương châm hành động, đó là\r\n“Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự\r\nphát triển bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt\r\nđộng công đoàn”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng tiếp tục được bầu làm Chủ tịch. Đại\r\nhội lần thứ XII Công đoàn Việt Nam diễn ra từ ngày 24-26/9/2018, đồng chí Bùi\r\nVăn Cường được bầu làm Chủ tịch. Đại hội đã xác định 09 nhóm chỉ tiêu, 09 nhiệm\r\nvụ tổng quát và 03 khâu đột phá trong cả nhiệm kỳ, ngoài ra còn có 01 chương\r\ntrình trọng tâm "Công đoàn Việt Nam đồng hành cùng Chính phủ nâng cao năng\r\nlực cạnh tranh quốc gia, phát triển bền vững đất nước".

\r\n\r\n

Có thể khẳng định rằng, trong công cuộc đổi mới đất nước, trải qua\r\n07 kỳ Đại hội Công đoàn Việt Nam, GCCN Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả\r\nvề số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành\r\nphần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,\r\nhiện đại hóa đất nước.

\r\n\r\n

III- NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHIỆM VỤ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN\r\nTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

\r\n\r\n

1. Những bài học kinh nghiệm

\r\n\r\n

(1) Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi trong\r\nhoạt động Công đoàn Việt Nam. Bám sát thực tiễn, tổ chức thực hiện sáng tạo chủ\r\ntrương của Đảng, đồng thời chủ động nghiên cứu, tham mưu kịp thời định hướng\r\nphát triển phong trào công nhân và hoạt động công đoàn; phối hợp chặt chẽ với\r\ncác cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, hình thành sức\r\nmạnh tổng hợp trong hoạt động công đoàn.

\r\n\r\n

(2) Quan tâm chăm lo lợi ích chính đáng của đoàn viên, lấy lợi ích\r\nlà điểm quan trọng tập hợp, thu hút người lao động đến với tổ chức Công đoàn;\r\ntạo sự khác biệt rõ hơn những quyền, lợi ích của người lao động là đoàn viên\r\ncông đoàn và chưa là đoàn viên công đoàn để tăng cường sự gắn kết giữa đoàn\r\nviên với tổ chức Công đoàn.

\r\n\r\n

(3) Thực hiện tốt vai trò đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp\r\ncủa đoàn viên, người lao động. Tiến hành đồng bộ cả ba khâu: Tham gia xây dựng,\r\ntổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát chế độ, chính sách với sự phân công\r\ntrách nhiệm của từng cấp công đoàn, đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người lao\r\nđộng.

\r\n\r\n

(4) Chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, kịp thời\r\nthích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thực tế. Coi trọng chất\r\nlượng hoạt động của công đoàn cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu,\r\nlấy nhu cầu hợp pháp, chính đáng của số đông đoàn viên, người lao động làm nền\r\ntảng cho hoạt động công đoàn, phát huy tính tự giác, tự nguyện gia nhập và tham\r\ngia hoạt động công đoàn của đoàn viên, người lao động.

\r\n\r\n

(5) Chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng phong trào\r\ncông nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong tình hình mới.\r\nThường xuyên quan tâm, đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn một\r\ncách cơ bản, có chiều sâu, tính lâu dài; thực hiện chính sách động viên hợp lý\r\nvề vật chất, tinh thần; bảo vệ hiệu quả quyền lợi hợp pháp của cán bộ công\r\nđoàn.

\r\n\r\n

2. Nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện\r\nnay

\r\n\r\n

(1) Phát triển đa dạng, hiệu quả các hoạt động chăm lo lợi ích cho\r\nđoàn viên, người lao động. Đổi mới cơ chế hoạt động xã hội của Công đoàn theo hướng\r\ngóp phần đảm bảo quyền an sinh xã hội. Nâng cao năng lực đại diện bảo vệ quyền\r\nlợi hợp pháp cho người lao động, cán bộ Công đoàn; chủ động tham gia xây dựng\r\nchính sách, pháp luật, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.

\r\n\r\n

(2) Tiến hành thường xuyên, đồng bộ, chất lượng công tác tuyên\r\ntruyền, giáo dục, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ\r\nnăng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động cho người lao động.\r\nChủ động thông tin về tổ chức và hoạt động Công đoàn, chú trọng công tác định\r\nhướng thông tin trên Internet và mạng xã hội. Tham gia xây dựng môi trường văn\r\nhóa tích cực trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp; đời sống\r\ntinh thần lành mạnh cho người lao động. Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính\r\nquyền đồng cấp về những vấn đề mới, diễn biến mới trong phong trào công nhân,\r\nviên chức, lao động và tổ chức công đoàn.

\r\n\r\n

(3) Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, nội dung, phương thức hoạt\r\nđộng công đoàn; chú trọng công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ\r\nsở gắn liền với việc nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn; đẩy\r\nmạnh công tác đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng yêu\r\ncầu, nhiệm vụ.

\r\n\r\n

(4) Nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng cho phù hợp\r\nvới điều kiện sống, làm việc, công tác của cán bộ, CNVCLĐ. Chú trọng phát hiện,\r\nbồi dưỡng, nhân rộng các mô hình, điển hình mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội\r\ncao.

\r\n\r\n

(5) Thực hiện toàn diện và chất lượng công tác nữ công ở các cấp\r\ncông đoàn, trọng tâm là quyền và việc làm bền vững của lao động nữ; xây dựng\r\ngia đình công nhân, viên chức, lao động no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh;\r\nchăm lo tốt hơn con công nhân, viên chức, lao động.

\r\n\r\n

(6) Chủ động hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế và khẳng định vai\r\ntrò của tổ chức Công đoàn Việt Nam; phát huy hiệu quả các hoạt động hợp tác\r\nquốc tế hỗ trợ cho hoạt động công đoàn.

\r\n\r\n

(7) Nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát công\r\nđoàn. Kiện toàn ủy ban kiểm tra và văn phòng ủy ban kiểm tra Công đoàn các cấp,\r\ntừng bước nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác kiểm tra, đáp ứng yêu cầu\r\nnhiệm vụ.

\r\n\r\n

(8) Tăng cường công tác quản lý thu, chi tài chính, quản lý tài\r\nsản công đoàn theo hướng chuyên nghiệp, công khai, minh bạch, thực hiện phân\r\nphối công bằng, hiệu quả; xây dựng nguồn lực đủ mạnh để đáp ứng nhiệm vụ của tổ\r\nchức Công đoàn trong tình hình mới.

\r\n\r\n

(9) Đổi mới phương thức chỉ đạo và tổ chức thực hiện theo hướng\r\nlấy người lao động làm trung tâm; hoạt động chủ yếu ở cơ sở; công đoàn cấp trên\r\nphục vụ công đoàn cấp dưới; phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc xây dựng tổ\r\nchức Công đoàn vững mạnh. Đẩy mạnh cải cách hành chính; phát huy dân chủ, tăng\r\ncường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực\r\nhiện.

\r\n\r\n

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam là dịp để cán bộ,\r\nđoàn viên, CNVCLĐ cùng nhân dân cả nước ôn lại, phát huy truyền thống vẻ vang\r\ncủa GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam; ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện\r\nthắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Tin Ng?c Bích


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Bản đồ hành chính
Thư viện nhạc
 Liên kết website
Thống kê truy cập
Thống kê: 1.085.847
Online: 57